Shamanism: định nghĩa, lịch sử và tín ngưỡng

Việc thực hành shaman giáo được tìm thấy trên khắp thế giới trong nhiều nền văn hóa khác nhau và liên quan đến tâm linh thường tồn tại trong trạng thái tâm thức bị thay đổi. Một thầy cúng thường có một vị trí được kính trọng trong cộng đồng của họ và đóng những vai trò lãnh đạo tâm linh cực kỳ quan trọng.

Shaman giáo
"Shaman" là một thuật ngữ được các nhà nhân chủng học sử dụng để mô tả một bộ sưu tập lớn các thực hành và tín ngưỡng, nhiều trong số đó liên quan đến bói toán, giao tiếp tâm linh và ma thuật.
Một trong những niềm tin quan trọng được tìm thấy trong thực hành shaman là cuối cùng mọi thứ - và mọi người - đều được kết nối với nhau.
Bằng chứng về các thực hành shaman đã được tìm thấy ở Scandinavia, Siberia và các khu vực khác của châu Âu, cũng như ở Mông Cổ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và Úc. Các bộ lạc Inuit và First Nations ở Bắc Mỹ sử dụng tâm linh ma giáo, các nhóm ở Nam Mỹ, Mesoamerica và Châu Phi cũng vậy.
Lịch sử và nhân chủng học
Bản thân từ shaman là đa nghĩa. Trong khi nhiều người nghe đến từ shaman và ngay lập tức nghĩ đến những người làm nghề y của người Mỹ bản địa, mọi thứ thực sự phức tạp hơn thế.

"Shaman" là một thuật ngữ được các nhà nhân chủng học sử dụng để mô tả một bộ sưu tập lớn các thực hành và tín ngưỡng, nhiều trong số đó liên quan đến bói toán, giao tiếp tâm linh và ma thuật. Trong hầu hết các nền văn hóa bản địa, bao gồm nhưng không giới hạn ở các bộ lạc thổ dân châu Mỹ, thầy cúng là một cá nhân có kỹ năng cao đã dành cả đời để theo tiếng gọi của họ. Một người không chỉ đơn giản tuyên bố mình là một thầy cúng; thay vào đó là một danh hiệu được cấp sau nhiều năm học.


Đào tạo và các vai trò trong cộng đồng
Trong một số nền văn hóa, các pháp sư thường là những người mắc một số loại bệnh suy nhược, khuyết tật hoặc dị tật về thể chất hoặc một số đặc điểm bất thường khác.

Trong số một số bộ lạc của Borneo, những người lưỡng tính được chọn để huấn luyện shaman. Trong khi nhiều nền văn hóa dường như ưa thích nam giới làm pháp sư, thì ở những nền văn hóa khác, phụ nữ không phải là không nghe thấy khi đào tạo làm pháp sư và chữa bệnh. Tác giả Barbara Tedlock tuyên bố trong The Woman in the Shaman's Body: Reclaine the Feminine trong Tôn giáo và Y học rằng bằng chứng cho thấy những pháp sư đầu tiên, được tìm thấy trong thời đại đồ đá cũ ở Cộng hòa Séc, thực sự là phụ nữ.

Ở các bộ lạc châu Âu, nhiều khả năng phụ nữ đã tập luyện như một pháp sư bên cạnh hoặc thậm chí thay cho nam giới. Nhiều sagas Bắc Âu mô tả các tác phẩm kỳ dị của volva, hay nữ tiên kiến. Trong nhiều sagas và eddas, các mô tả về lời tiên tri bắt đầu bằng đoạn một bài hát vang lên môi anh ta, cho thấy rằng những lời sau đó là lời của thần thánh, được gửi qua volva như một sứ giả cho các vị thần. Trong số các dân tộc Celt, truyền thuyết kể rằng XNUMX nữ tu sĩ sống trên một hòn đảo ngoài khơi bờ biển Breton có kỹ năng cao trong nghệ thuật tiên tri và thực hiện các nhiệm vụ của thầy cúng.


Trong tác phẩm Bản chất của Shamanism và Câu chuyện về Shamanic, Michael Berman thảo luận về nhiều quan niệm sai lầm xung quanh thuyết shaman, bao gồm cả ý kiến ​​cho rằng pháp sư bị ám bởi những linh hồn mà anh ta làm việc cùng. Trên thực tế, Berman lập luận rằng một pháp sư luôn kiểm soát hoàn toàn, bởi vì không bộ lạc bản địa nào chấp nhận một pháp sư không thể kiểm soát thế giới linh hồn. Anh ta nói,

"Trạng thái linh cảm cố ý gây ra có thể được coi là đặc điểm của trạng thái của cả thầy cúng và các nhà thần bí tôn giáo mà Eliade gọi là nhà tiên tri, trong khi trạng thái chiếm hữu không tự nguyện giống trạng thái tâm thần hơn."

Bằng chứng về các thực hành shaman đã được tìm thấy ở Scandinavia, Siberia và các khu vực khác của châu Âu, cũng như ở Mông Cổ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và Úc. Các bộ lạc Inuit và First Nations ở Bắc Mỹ sử dụng tâm linh ma giáo, các nhóm ở Nam Mỹ, Mesoamerica và Châu Phi cũng vậy. Nói cách khác, nó đã được tìm thấy ở nhiều nơi trên thế giới. Điều thú vị là không có bằng chứng cứng rắn và chắc chắn nào liên kết thuyết shaman với thế giới nói tiếng Celt, Hy Lạp hoặc La Mã.

Ngày nay, có một số người ngoại giáo theo một kiểu tân shaman giáo chiết trung. Nó thường liên quan đến việc làm việc với vật tổ hoặc động vật tâm linh, du hành trong mơ và nghiên cứu thị giác, thiền định xuất thần và du hành vũ trụ. Điều quan trọng cần lưu ý là phần lớn những gì hiện được bán trên thị trường là "shaman giáo hiện đại" không giống với các thực hành shaman của người bản địa. Lý do cho điều này rất đơn giản: một pháp sư bản địa, được tìm thấy trong một bộ lạc nông thôn nhỏ của một nền văn hóa xa xôi, đang đắm chìm trong nền văn hóa đó hàng ngày, và vai trò của một pháp sư được xác định bởi các vấn đề văn hóa phức tạp của nhóm đó.

Michael Harner là một nhà khảo cổ học và là người sáng lập Quỹ Nghiên cứu Shamanic, một nhóm phi lợi nhuận hiện đại chuyên bảo tồn các thực hành shaman và truyền thống phong phú của nhiều nhóm bản địa trên thế giới. Tác phẩm của Harner đã cố gắng tái tạo lại thuyết shaman cho người hành nghề tân ngoại giáo hiện đại, đồng thời tôn trọng các thực hành và hệ thống tín ngưỡng nguyên thủy. Công việc của Harner thúc đẩy việc sử dụng trống nhịp nhàng làm nền tảng của đạo giáo cơ bản và vào năm 1980, ông xuất bản The Way of the Shaman: A Guide to Power and Healing. Cuốn sách này được nhiều người coi là cầu nối giữa đạo giáo bản địa truyền thống và các thực hành Neoshaman hiện đại.

Niềm tin và khái niệm

Đối với các pháp sư đầu tiên, niềm tin và thực hành được hình thành như một phản ứng với nhu cầu cơ bản của con người là tìm ra lời giải thích và thực hiện một số quyền kiểm soát đối với các sự kiện tự nhiên. Ví dụ, một xã hội săn bắn hái lượm có thể cúng dường các linh hồn đã ảnh hưởng đến quy mô đàn hoặc tiền thưởng rừng. Các xã hội mục vụ sau này có thể đã dựa vào các vị thần và nữ thần để kiểm soát khí hậu, để có mùa màng dồi dào và gia súc khỏe mạnh. Sau đó, cộng đồng trở nên phụ thuộc vào công việc của thầy cúng vì hạnh phúc của họ.

Một trong những niềm tin quan trọng được tìm thấy trong thực hành shaman là cuối cùng mọi thứ - và mọi người - đều được kết nối với nhau. Từ thực vật và cây cối đến đá và động vật và hang động, tất cả mọi thứ đều là một phần của một tổng thể tập thể. Hơn nữa, mọi thứ đều được thấm nhuần bởi tinh thần, hay linh hồn của chính anh ấy, và có thể được kết nối trên bình diện phi vật chất. Tư duy đúc kết này cho phép thầy cúng đi lại giữa thế giới thực tại của chúng ta và thế giới của những sinh vật khác, đóng vai trò như một đầu nối.

Ngoài ra, do khả năng đi lại giữa thế giới của chúng ta và vũ trụ tâm linh lớn hơn, một pháp sư thường là người chia sẻ những lời tiên tri và thông điệp linh nghiệm với những người có thể cần nghe chúng. Những thông điệp này có thể là một cái gì đó đơn giản và tập trung vào từng cá nhân, nhưng thường xuyên hơn không, chúng là những thứ sẽ tác động đến toàn bộ cộng đồng. Ở một số nền văn hóa, một thầy cúng được hỏi ý kiến ​​để có cái nhìn sâu sắc và hướng dẫn trước khi các trưởng lão đưa ra bất kỳ quyết định quan trọng nào. Một pháp sư thường sẽ sử dụng các kỹ thuật gây xuất thần để nhận được những linh ảnh và thông điệp này.

Cuối cùng, các pháp sư thường đóng vai trò là người chữa bệnh. Họ có thể sửa chữa các bệnh trong cơ thể vật chất bằng cách chữa trị sự mất cân bằng hoặc tổn hại đến tinh thần của người đó. Điều này có thể được thực hiện bằng những lời cầu nguyện đơn giản hoặc những nghi lễ phức tạp liên quan đến múa hát. Vì căn bệnh này được cho là đến từ các linh hồn ma quỷ, thầy cúng sẽ làm việc để xua đuổi các thực thể tiêu cực khỏi cơ thể của người đó và bảo vệ người đó khỏi bị tổn hại thêm.

Điều quan trọng cần lưu ý là shaman giáo không phải là một tôn giáo; thay vào đó, nó là một tập hợp các thực hành tâm linh phong phú bị ảnh hưởng bởi bối cảnh của nền văn hóa mà nó tồn tại. Ngày nay, nhiều người thực hành pháp sư và mỗi người làm điều đó theo một cách riêng và cụ thể cho xã hội và thế giới quan của họ. Ở nhiều nơi, các pháp sư ngày nay tham gia vào các phong trào chính trị và thường đảm nhận những vai trò quan trọng trong hoạt động, đặc biệt là những người tập trung vào các vấn đề môi trường.